본문 바로가기
카테고리 없음

박두진의 시 청산도 수능 출제 해석 해설

by bloggerkim2 2024. 6. 4.
반응형

안녕하세요, 문학쿨러입니다.

오늘은 현대시 중 박두진의 시 청산도 수능 출제 작품을 배워보도록 하겠습니다.

현대시의 작품의 주제 내용은 깨끗한 세상 입니다. 그럼 상세한 내용은 밑에서 조금 더 구체적으로 살펴볼까요?

 

박두진의 시 청산도 수능 출제

박두진의 시 청산도 수능 출제

 

 

박두진의 시 청산도 수능 출제 해석 해설

박두진의 시 청산도 수능 출제 해석 해설입니다. 

 

청산도(靑山道)

박두진(朴斗鎭, <해> 1949년생)

산아, 우뚝 솟은 푸른 산아. 철철철 흐르듯 짙푸른 산아.

사슴도 안 오고 바람도 안 불고 너멋골 골짜기서 울어오는 뻐꾸기 소리, 아득히 가버린 것 잊어버린 하늘, 아른아른 오지 않는 보고 싶은 하늘에, 어쩌면 만나도질 볼이 고운 사람, 난 혼자 그리워라. 가슴으로 그리워라.

티끌 부는 세상에도, 벌레 같은 세상에도 달 가고, 밤 가고, 눈물도 가고, 틔어 올 밝은 하늘 빛난 아침이 오듯, 그대가 그리워하는 것은 향기로운 이슬밭 푸른 언덕을, 총총총 달려도 와 줄 것이라.

눈에 어려 흘러가는 물결 같은 사람 속, 아우성쳐 흘러가는 물결 같은 사람 속에서 혼자서 철도 없이 너만 그리겠다.

핵심 정리

 Thể thơ: 산문시, 서정시
 Tính chất: 산문적, 서경적, 미래 지향적
 Đặc điểm:
     Sử dụng phép điệp và phép nhân để nhấn mạnh chủ đề
     Nhịp điệu uyển chuyển và giàu chất thơ
     Chuyển tải nguyên lý ra đời và diệt vong của tự nhiên sang nguyên lý của cuộc sống con người
     Sử dụng nhịp thở dồn dập và lặp lại các cụm từ để thể hiện cảm xúc sâu sắc
 Chủ đề: Khát vọng và nỗi nhớ về một thế giới trong sạch như núi xanh (quan điểm thế giới Cơ đốc giáo)
 Ảnh hưởng:
     "Thanh sơn" tượng trưng cho hình ảnh thực sự của thế giới mà chúng ta phải hướng tới.

Bài viết nghiên cứu

1. So sánh "Mạn ngâm trên đỉnh Ma An" và "Thanh sơn đạo"

Phân tích mối quan hệ giữa ngọn núi và cái tôi trữ tình trong các bài thơ của Mạn ngâm trên đỉnh Ma An và Thanh sơn đạo. Trong mỗi bài thơ, hãy xác định ngọn núi được miêu tả như thế nào và cái tôi trữ tình phản ứng ra sao. (Khoảng 150 từ, 10 điểm)[Kỳ thi tuyển sinh Đại học Quốc gia Seoul năm 1996, Luận văn I]

Hiểu và cảm nhận

Bài thơ này là một bài thơ 산 văn gồm 4 khổ không chia khổ mà chỉ chia đoạn. Các thành ngữ và từ tượng thanh, từ tượng hình được sử dụng phong phú kết hợp với các cụm từ lặp lại tạo nên nhịp thơ uyển chuyển và giàu chất thơ chứa đựng những câu thơ tượng trưng cho sức sống của thiên nhiên và những câu thơ thể hiện nhận thức bi quan về hiện thực. Thơ thời kỳ đầu của Park Du-jin thường lấy nhận thức thực tế bi quan, tiêu cực làm nền tảng, nhưng không dừng lại ở đó mà thể hiện ý chí mạnh mẽ của chính nhà thơ hướng tới tương lai, khôi phục thiên đường. Tác phẩm này cũng thể hiện rõ đặc điểm đó ngay từ cách sử dụng các thành phần thơ. Tức là các thành phần thơ có nghĩa phủ định như "không đến", "không thổi", "đã đi", "quên mất", "không đến" xuất hiện thường xuyên, trong khi bối cảnh thời gian cũng được thiết lập vào "đêm", "bóng tối". Tuy nhiên, sức sống của thiên nhiên vẫn bùng nổ mạnh mẽ, tạo thành chức năng tương đối bù trừ cho hoàn cảnh thực tế bi quan và tiêu cực. Cuối cùng, tác giả đã chuyển hóa nguyên lý tự nhiên của sự diệt vong và sáng tạo được tìm thấy trên ngọn núi xanh thành nguyên lý lịch sử của mất mát và phục hồi, nguyên lý của lịch sử loài người. Nói cách khác, tác giả đã tìm thấy sức sống vĩnh hằng của núi xanh trong vòng tuần hoàn sinh tử, từ đó nuôi dưỡng thái độ hướng tới tương lai, tin rằng dù hiện thực có bi quan như đêm tối nhưng rồi cũng sẽ đến một ngày sáng sủa, một buổi sáng rực rỡ. Do đó, có thể thấy bài thơ này có cấu trúc biểu hiện là nguyên lý tự nhiên của sự diệt vong và sáng tạo, còn cấu trúc thâm ý là nguyên lý của lịch sử, nguyên lý của lịch sử loài người.

Khổ 1 chủ yếu thể hiện sức sống của ngọn núi xanh. Ngọn núi xanh cao ngất, ngọn núi xanh thẫm như dòng nước tuôn chảy, ngọn núi xanh um tùm cây cối, ánh nắng vàng rực rỡ như núi xanh mô tả chính là biểu tượng của sức sống phong phú và tươi đẹp. Như vậy, thiên nhiên trở thành biểu tượng của quá trình tuần hoàn sinh tử, mang ý nghĩa sức sống vĩnh hằng. "철철철" ngoài ý nghĩa biểu thị màu xanh của núi còn hàm chứa ý nghĩa phức hợp về sự rậm rạp của cây cối, sự tinh khiết của ánh nắng vàng, đồng thời "둥둥" vừa biểu thị sự chuyển động của mây vừa kết nối ngọn núi với tác giả, khiến người ta cảm nhận được sự chuyển động tĩnh lặng (động trong tĩnh). Tuy nhiên, qua những câu thơ như "hươu không đến, gió không thổi, tiếng chim cuốc kêu từ thung lũng 너멋골" vẫn có thể thấy được một phần của hiện thực bi quan.

Khổ 2 thể hiện rõ hơn nhận thức bi quan về thực tại. Đó chính là bầu trời xa xôi đã mất, bầu trời ao ước không bao giờ đến được trong những câu thơ "bầu trời ao ước xa xôi đã quên mất, bầu trời khao khát le lói không đến được, người đẹp có thể gặp gỡ, tôi đơn độc nhớ nhung". Đối tượng mà tác giả nhớ nhung chính là bầu trời đã quên và người đẹp, tất cả những gì không tìm thấy trong thế giới hiện thực bi quan đều trở thành đối tượng của nỗi khao khát. Câu thơ 줄줄줄 là từ tượng thanh bắt nguồn từ tiếng khóc và tiếng nước, có chức năng đồng nhất trái tim của núi và trái tim của tác giả.

Khổ 3 thể hiện thái độ hướng tới tương lai nhằm vượt qua hiện thực bi quan. Như đã thấy trong những câu thơ "dù là thế giới đầy bụi bẩn, dù là thế giới như sâu bọ", hiện thực có bi quan đến đâu thì tác giả vẫn tin rằng "mặt trăng lặn, đêm tàn, nước mắt khô, bầu trời trong xanh, sáng sủa sẽ đến", đối tượng mà tác giả nhớ nhung sẽ "chạy đến trên đồng cỏ xanh ngát đầy hương thơm, dù chạy thật nhanh". Bằng cách đó, tác giả đã chuyển hóa nguyên lý sáng tạo và diệt vong mà tác giả tìm thấy ở núi xanh thành nguyên lý phục hồi và mất mát của lịch sử, của cuộc sống con người, qua đó vượt qua hiện thực bi quan.

Khổ 4 thể hiện ý chí không bao giờ từ bỏ nỗi nhớ về "ngài". Trong dòng người vô danh như "sóng nước trôi qua trước mắt", "sóng nước tuôn trào như tiếng kêu la" tác giả vẫn một mình nhớ nhung "ngài" mà không cần bất kỳ phương tiện nào.

Tìm hiểu thêm

 Cấu trúc của tác giả: cấu trúc của người nghe trong "Thanh sơn đạo"
Mối quan hệ giữa tác giả: người nghe trong bài thơ này chuyển từ cấu trúc tác giả: người nghe sang cấu trúc tác giả: người được nhớ đến. Đặc điểm này xét từ quan điểm giải thích khát vọng giải thoát thế giới, tức là khát vọng độc lập của đất nước, thì có thể nói là bắt nguồn từ sự thay đổi hoàn cảnh sau giải phóng, khác với trước giải phóng khi chỉ mong cầu hòa bình và hy vọng thuần túy.
 Những tác phẩm về lý tưởng
 So sánh "Biển", "Hương huyện", "Thanh sơn đạo" của Park Du-jin về "Núi"

Danh sách câu hỏi

 Tháng 11 năm 2016
 Kỳ thi tuyển sinh đại học năm 2006

반응형

댓글